Mường Tè là huyện vùng cao biên giới với 14 đơn vị hành chính (13 xã, 1 thị trấn) có 10 dân tộc sinh sống; dân số toàn huyện khoảng 48.398 người, tỉ lệ người dân tộc thiểu số chiếm 92,8%. Xác định làm tốt công tác dân số góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 21-NQ/TW phù hợp với thực tế địa phương, xây dựng Kế hoạch số 193-KH/HU, ngày 10/7/2018 về thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW; chỉ đạo ủy ban nhân dân huyện, đảng ủy, ủy ban nhân dân các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với tình hình đơn vị; chỉ đạo làm tốt công tác quán triệt, học tập Nghị quyết (đảng viên học tập đạt 95%, công chức, viên chức chưa phải đảng viên học tập đạt 91%) và tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến Nhân dân.
Nhiệm vụ công tác dân số được cấp uỷ, chính quyền các cấp đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện và từng xã, thị trấn; chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát chặt chẽ công tác dân số và coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của địa phương. Phát huy mạnh mẽ vai trò của các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở, sự tham gia của cả cộng đồng đối với công tác dân số. Nâng cao tính tiên phong gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đó có chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.
Tuyên truyền về chính sách dân số được chú trọng theo hướng đổi mới, trọng tâm đến từng đối tượng, lứa tuổi. Các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện, cấp ủy, chính quyền xã, thị trấn thường xuyên phối hợp chặt chẽ tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến Nhân dân với các hình thức, phương pháp phù hợp từng đối tượng, lứa tuổi về các nội dung như: Chăm sóc sức khoẻ sinh sản; các biện pháp kế hoạch hoá; tư vấn sức khỏe tiền hôn nhân; khám sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh; chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi; tác hại của tảo hôn, kết hôn cận huyết thống; hậu quả của việc sinh nhiều con. Tuyên truyền các mô hình, đề án và vận động thực hiện nhằm nâng cao chất lượng dân số; các chính sách thực hiện điều chỉnh mức sinh thay thế; nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.
Tập trung nâng cao nhận thức của người dân đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa còn mang nặng hủ tục lạc hậu, tư tưởng trọng nam, khinh nữ bằng việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục chuyển đổi hành vi, nhận thức nhằm giảm thiếu mất cân bằng giới tính khi sinh; khơi dậy phong trào mọi người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao sức khỏe tầm vóc, thể lực. Nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cư trú về tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; đổi mới nội dung, chương trình phương pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường.
Từ năm 2018 đến nay, đã tổ chức 96 hội nghị chuyên đề, tuyên truyền tại các bản với 3.150 buổi; tư vấn tại hộ gia đình với 975 lượt với nội dung về: Luật Hôn nhân và Gia đình, tác hại của tảo hôn, kết hôn cận huyết thống; bình đẳng giới và hậu quả của gia tăng dân số; hậu quả của sinh nhiều con và các giải pháp, các biện pháp tránh thai hiện đại, lợi ích của sàng lọc trước sinh và sơ sinh, hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh, lợi ích khi thực hiện khám sức khỏe trước kết hôn, chăm sóc sức khỏe bà mẹ sau sinh... Tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh, truyền hình huyện, truyền thanh xã với bản 298 tin, cấp phát 1.500 tờ rơi các loại mỗi năm. Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và trường dân tộc nội trú cho các em lứa tuổi vị thành niên để tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe sinh sản, giới và giới tính, tác hại của tảo hôn, kết hôn cận huyết thống.
Thành lập và phát huy vai trò của các câu lạc bộ về công tác dân số như: “Câu lạc bộ không sinh con thứ 3”, “Câu lạc bộ kế hoạch hóa gia đình”... Tổ chức các buổi sinh hoạt định kỳ, qua đó giúp các hội viên được trao đổi, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng chính đáng. Đồng thời giúp các hội viên phụ nữ thực hiện tốt các phong trào thi đua, các cuộc vận động về công tác dân số, thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng môi trường sống lành mạnh, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.
Mạng lưới cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được củng cố, 100% cơ sở y tế công lập thực hiện cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và 3 cơ sở tư nhân thực hiện dịch vụ đảm bảo yêu cầu theo quy định. Trung tâm Y tế huyện thực hiện tốt các dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh tật trước sinh, sơ sinh, hỗ trợ sinh sản, tư vấn kiểm tra sức khỏe sinh sản trước hôn nhân. Các cơ sở cung cấp dịch vụ trong và ngoài công lập được kết nối, hợp tác có hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả Đề án 1816 về đưa bác sỹ xuống cơ sở thực hiện các dịch vụ cao trong đó có dịch vụ về dân số. Triển khai tốt nội dung chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và tổ chức khám sức khỏe cho người cao tuổi; tạo điều kiện thuận lợi cho người cao tuổi có các điểm sinh hoạt, văn hóa, vui chơi giải trí. Chú trọng tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên về dân số; các xã, thị trấn thường xuyên bồi dưỡng, hướng dẫn chuyên môn cho đội ngũ làm công tác dân số thôn bản.
Nhờ tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở nhiều chỉ tiêu quan trọng về dân số của huyện đã đạt kế hoạch. Bình quân phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,22 con; mỗi năm tỷ lệ tảo hôn giảm 0,85% (hiện còn 6,53%); không có trường hợp kết hôn cận huyết thống. Trên 90% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tuyên truyền, tư vấn thực hiện các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Tỷ số giới tính khi sinh được duy trì ở mức dưới 110 bé trai/100 bé gái. Tỷ lệ nam, nữ được tư vấn, khám sức khoẻ trước khi kết hôn đạt trên 38%; phụ nữ mang thai được sàng lọc tầm soát ít nhất 3 loại bệnh, tật bẩm sinh phổ biến nhất đạt 3,15%; trẻ sơ sinh được sàng lọc tầm soát ít nhất 3 bệnh, tật bẩm sinh phổ biến nhất đạt 18,36%; 90% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế. Duy trì và khai thác thông tin có hiệu quả phần mềm dữ liệu dân cư tại tuyến huyện đảm bảo các số liệu phục vụ cho việc xây dựng các chương trình, của huyện có liên quan đến dân số.
Bên cạnh đó, công tác dân số của huyện vẫn còn một số tồn tại, khó khăn: Cấp ủy, chính quyền một số xã chưa thực sự vào cuộc quyết liệt, chủ yếu do trạm y tế xã tham mưu, đề xuất. Tỷ lệ bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên, tỷ lệ tảo hôn tuy đã giảm dần nhưng vẫn còn cao, trong đó vẫn còn tình trạng cán bộ, đảng viên, viên chức sinh con thứ 3; tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc còn thấp. Nguồn lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, thu nhập của người dân còn thấp, tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, trong khi nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân và đầu tư cho y tế ngày càng cao.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện công tác dân số thời gian tới, Ban Thường vụ Huyện ủy xác định tiếp tục quán triệt, tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới; đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về dân số vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của huyện và cấp xã. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác dân số; các tổ chức đoàn thể vào cuộc đẩy mạnh đổi mới tuyên truyền, giáo dục, truyền thông về dân số. Phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số, cung cấp đầy đủ, kịp thời các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả, đa dạng, thuận tiện với chất lượng ngày càng tốt hơn cho các đối tượng, bảo đảm thực hiện đạt chỉ tiêu kế hoạch. Đẩy mạnh hiệu quả của các mô hình, đề án nâng cao chất lượng dân số như: chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, mô hình giảm thiểu tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống, đề án kiểm soát tầm soát các dị dạng, bệnh, tật bẩm sinh và các hoạt động nâng cao chất lượng dân số. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, thanh tra chuyên ngành các vi phạm pháp luật về dân số./.