Niềm tin hướng tới hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh trong năm 2019
Thứ hai - 04/02/2019 10:091.4230
Năm 2018, mặc dù còn gặp không ít khó khăn nhưng với tinh thần quyết tâm và triển khai đồng bộ các giải pháp, kinh tế xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển khá, các chỉ tiêu chủ yếu cơ bản đạt và vượt kế hoạch, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Đặc biệt, thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 2.246 tỷ đồng, vượt 15,22% dự toán giao, tăng 11,5% so với cùng kỳ; tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người đạt 32,92 triệu đồng, tăng 2,22 triệu đồng so với năm 2017.
Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất nông nghiệp có mức tăng trưởng khá (tăng 4,6% so với củng kỳ); các vùng sản xuất cây công nghiệp tập trung tiếp tục được mở rộng và phát triển với việc trồng mới 1,155 ha cây chè, 1.343 ha cây quế, 295 ha cây sơn tra, 769 ha cây mắc ca. Làm tốt quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng mới gắn với chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh lên 49,11%. Nông thôn tiếp tục khởi sắc, bình quân mỗi xã đạt 13,67 tiêu chí nông thôn mới; năm 2018 có 5 xã đạt chuẩn, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 29 xã, chiếm 30,21%.
Quan tâm thu hút đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển các thành phần kinh tế, đăng ký thành lập mới 145 DN, 30 HTX; cấp quyết định chủ trương đầu tư 22 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt 4.521 tỷ đồng; đặc biệt, phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng nhà máy chế biến mủ cao su tại xã Nậm Tăm, huyện Sỉn Hồ và nhà máy chế biến mắc ca tại xã Mường So, huyện Phong Thổ. Tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký kê khai thuế đạt 83,8%, số thuế nộp NSNN đạt 608 tỷ đồng, tăng 102% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng trưởng khá; chỉ số phát triển công nghiệp tăng 28,04% so với cùng kỳ năm trước; giá trị sản xuất công nghiệp đạt khá và tăng 2,5% so với cùng kỳ. Thị trường, giá cả hàng hóa được kiểm soát chặt chẽ, chỉ số giá tiêu dùng bình quân tăng 1,6% so với năm 2017. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng 6,94% so với cùng kỳ năm trước; giá trị xuất khẩu hàng địa phương ước đạt 11,06 triệu USD.
Hoạt động du lịch phát triển khá, tổng doanh thu đạt 377,4 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2017 (khách quốc tế tăng 15%); lượng khách du lịch tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đạt 243.400 lượt người (khách quốc tế tăng 10%). Các ngành dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông tiếp tục phát triển, chất lượng ngày càng nâng lên, đáp ứng nhu cầu của Nhân dân. Thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 2.246 tỷ đồng, vượt 15,22% dự toán giao, tăng 11,5% so với cùng kỳ. Hệ thống ngân hàng thương mại tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn, tập trung cho vay các lĩnh vực ưu tiên, nhất là hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại do mưa lũ; tích cực thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu, nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu nằm trong mức an toàn.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư, nhất là hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phục vụ tốt cho phát triển sản xuất và đời sống của Nhân dân. Chú trọng quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản và môi trường; xử lý quyết liệt, hiệu quả việc giải toả các điểm khai thác khoáng sản trái phép. Chủ động các biện pháp bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lý chặt chẽ các hoạt động sản xuất, xây dựng, khai thác làm ảnh hưởng đến môi trường; xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường. Kịp thời phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai.
Văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển với nhiều tín hiệu phấn khởi. Chất lượng giáo dục được nâng lên, nhất là giáo dục vùng đặc biệt khó khăn, duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia; tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, học sinh đi học đúng độ tuổi các cấp, thi đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông và đỗ vào các trường cao đẳng, đại học đạt khá; tỷ lệ phòng học kiên cố, bán kiến cố tăng so với năm học trước. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức gắn với quy hoạch và yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo. Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển theo hướng nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; chú trọng ứng dụng khoa học - công nghệ trong bảo quản, chế biến sau thu hoạch và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý.
Chất lượng công tác y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân nâng lên rõ nét, nhất là bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác y tế dự phòng, hoạt động khám, chữa bệnh, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tích cực can thiệp giảm thiểu tác hại dự phòng lây nhiễm HIV, chăm sóc điều trị và tiếp cận thuôc ARV cho người nhiễm HIV/AIDS, điều trị thay thế nghiện các dạng thuốc phiện bàng methadone. Các hoạt động truyền thông về dân số, kế hoạch hoá gia đình phát huy tốt hiệu quả, thực hiện các giải pháp giảm tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống, nâng cao chất lượng dân số đối với đồng bào dân tộc thiểu số; tỷ lệ trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên giảm so với cùng kỳ năm trước. Bộ máy các đơn vị thuộc ngành y tế được củng cố, sắp xếp, tinh gọn gắn với nâng cao chất lượng hoạt động.
Các hoạt động văn hóa, thể thao, thông tin truyền thông tiếp tục phát triển; hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình kịp thời phản ánh các sự kiện chính trị, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của tỉnh; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai sâu rộng gắn với thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; chú trọng khôi phục, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc... góp phần nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân các dân tộc. An sinh và phúc lợi xã hội được tập trung triển khai hiệu quả, nhất là chăm lo các đối tượng chính sách, người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo; kịp thời khắc phục, hỗ trợ, ổn định đời sống người dân bị ảnh hưởng thiên tai, mưa lũ. Các chương trình, dự án, chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc được chủ động triển khai. Rà soát, bổ sung xã, bản đặc biệt khó khăn đối với các bản mới thành lập, bản bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Chú trọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động và giảm nghèo; tỷ lệ hộ nghèo giảm 4,85%, xuống còn 24,98%, riêng các huyện nghèo giảm bình quân 5,55%; có 02 huyện Than Uyên và Tân Uyên được công nhận thoát nghèo giai đoạn 2016-2020.
An ninh chính trị, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo ổn định; hoạt động của các loại tội phạm được kiềm chế, một số loại tội phạm giảm; công tác đối ngoại được duy trì, phát triển. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được được thực hiện đồng bộ; các vụ khiếu nại, tố cáo mới phát sinh được tiếp nhận, xử lý, giải quyết kịp thời.
Bên cạnh những kết quả đáng phấn khởi, thẳng thắn nhìn nhận quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong năm qua của tỉnh vẫn còn một số hạn chế như: chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn, sản lượng lương thực có hạt, tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch không đạt kế hoạch đề ra; việc duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới tại một số xã đạt chuẩn còn thấp. Công tác quản lý tài chính, ngân sách có lúc, có việc thiếu chặt chẽ; tiến độ thi công các công trình, dự án còn chậm, tỷ lệ giải ngân đạt thấp. Công tác quản lý xây dựng, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, môi trường tại một số địa phương chưa chặt chẽ. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục, y tế một số nơi chưa đáp ứng yêu câu. Chất lượng đào tạo nghề chưa cao, chưa gắn với giải quyết việc làm. Công tác cải cách hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cẩp tỉnh, chỉ số PAPI còn chậm và yếu; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và giải quyết thủ tục hành chính ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hạn chế. An ninh trật tự còn tiềm ẩn một số yếu tố phức tạp, đặc biệt là tội phạm về trật tự xã hội; tình hình khiếu kiện có chiều hướng gia tăng, nhất là khiếu kiện liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư các công trình thủy điện, thực hiện chế độ chính sách đổi với công chức, viên chức, người lao động.
Nguyên nhân do những khó khăn vốn có của tỉnh và tình hình thời tiết, mưa lũ trên địa bàn tỉnh trong năm diễn ra hết sức phức tạp; song nguyên nhân chủ yếu vẫn là công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, nắm tình hình và triển khai thực hiện nhiệm vụ ở một số ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị có lúc, có việc chưa chủ động, thiếu quyết liệt; vai trò của người đứng đầu của một số cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ chưa cao; trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành trong thực hiện một số nhiệm vụ chưa chặt chẽ; ý thức, trách nhiệm thực thi nhiệm vụ của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa cao.Năm 2019 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII; năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, của tỉnh; năm chuẩn bị các điều kiện để tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tiếp tục thực hiện tinh thần chỉ đạo "Hành động, kỷ cương, hiệu quả" của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, yêu cầu đặt ra đối với cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành là tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới bền vừng gắn với phát triển kinh tế du lịch. Nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và giảm nghèo bền vững; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí. Đảm bảo giữ vững ôn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh. Quyết tâm phấn đấu cơ bản hoàn thành và hoàn thành vượt mức các mục tiêu nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII./.
Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thôngt ư số 19/2021/TT-BTC ngày 18/3/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế