Bằng tiếng nói trong trẻo, lơ lớ đáng yêu, bé Mùa Thị Tuyết Nga, học sinh lớp 1A4 Trường Phổ thông dân tộc Bán trú (PTDTBT) Tiểu học Tà Mung, thật thà: “Em rất thích học bán trú! Thầy cô rất là yêu em!”. Ở Trường PTDTBT THCS Dào San, em Tẩn Tả Mẩy thủ thỉ: “Ở trường, em được học hành tử tế, được chăm sóc tận tình”. Còn ông Vàng A Chỉnh – Phó Chủ tịch HĐND xã Dào San, vẫn nhớ như in những năm tháng bán trú đã giúp ông có cơ hội đổi đời: “Trường bán trú tạo điều kiện để tôi được học hành, bây giờ trở về phục vụ chính quê hương”. Những lời kể mộc mạc ấy, như những mảnh ghép của bức tranh về sự đổi thay lặng lẽ mà bền bỉ nơi biên cương Tổ quốc – bức tranh với những gam màu tươi sáng, của ước mơ, của tri thức…
Ngược dòng thời gian trở lại những năm 2004 - 2005, khi tỉnh Lai Châu vừa chia tách, thành lập, giáo dục của tỉnh vùng cao còn ngổn ngang, bộn bề khó khăn. Trường lớp thiếu thốn, nhiều điểm trường chỉ là những căn nhà tre nứa tạm bợ, lợp tranh, ướt sũng sau mỗi cơn mưa. Học sinh đi bộ hàng chục kilômét đến trường. Các em học sinh phải vượt suối, vượt đèo, mang theo là sách, vở, là cơm nắm muối vừng Lại có em chỉ mang theo cái bụng rỗng và ánh mắt khát khao tìm về với con chữ Bác Hồ. Không chỉ thế, đội ngũ giáo viên vừa mỏng, vừa phải dạy học trong điều kiện khắc nghiệt, nhiều thầy, cô không quản ngại gian khổ, ngày ngày vượt qua những con đường đất lầy lội, băng suối, vượt đèo, mang con chữ đến với các em học sinh vùng cao. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, tinh thần “vì học sinh thân yêu” của cấp uỷ, chính quyền; các thầy cô và đồng bào các dân tộc đã đoàn kết, chia sẻ khó khăn, chung sức, đồng lòng xây dựng các mô hình trường bán trú dân nuôi, làm nền móng đầu tiên xây nên hệ thống trường bán trú, nội trú của Lai Châu hôm nay.
Còn nhớ những năm đó, tôi đã được chứng kiến những phòng học “nhiều không”. Không tường, không nền, không đèn, không mái. Đó có thể là gầm sàn của một ngôi nhà người dân tốt bụng, là mái lá mà cả bản dựng lên bằng những chạc cây khòng khèo, hay ngôi nhà thưng bạt từ mái đến trường… Ấy thế mà, từ những “ngôi trường” ấy vẫn vang lên những tiếng “I”, “T”. Từ các mô hình tự phát, tỉnh Lai Châu đã có các mô hình bán trú dân nuôi đầu tiên, ở đó, các em học sinh được nghỉ lại trường còn đồ ăn, thức uống do gia đình chu cấp. Thế cũng là may vì thời điểm đó, kinh tế khó khăn lo được cho các em nơi ngủ nghỉ, học tập đã là cả một sự nỗ lực vượt bậc của tỉnh bởi khi đó, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh chỉ đạt khoảng 2,2 triệu đồng, còn bình quân lương thực chỉ có 290kg. Nghĩa là không chỉ nghèo, Lai Châu còn thuộc diện đói (trung bình mỗi người được hơn 8 lạng gạo một ngày) mà vẫn nỗ lực để dành dụm xây trường, xây ký túc xá cho học sinh. Từ đó, chúng ta có những ước mơ vươn lên từ ngách núi của các em học sinh ở xã Sì Lở Lầu, hay câu hát “cháu vẽ ông mặt trời” mà tôi nghe được trong một đêm sương nặng ở xã Huổi Luông…
Ước mơ của trẻ em vùng cao luôn được trân trọng. Khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 30a và hàng loạt chính sách hỗ trợ vùng đặc biệt khó khăn, Lai Châu đã nắm lấy cơ hội, mạnh dạn đưa mô hình bán trú vào cuộc sống bằng cách huy động tối đa nguồn lực xã hội, tranh thủ sự hỗ trợ của các bộ, ngành, tổ chức, cá nhân. Phương châm “dù khó khăn đến đâu cũng phải chăm lo cho giáo dục” trở thành kim chỉ nam xuyên suốt. Hàng loạt công trình do chương trình 30a hỗ trợ được triển khai – từ nhà bán trú, nhà bếp, phòng học, khu nội trú liên cấp – diện mạo giáo dục vùng cao Lai Châu thật sự bước sang trang mới. Những gian lớp lợp lá ngày nào được thay bằng trường kiên cố, bền vững, tạo nền tảng vững chắc cho việc mở rộng mạng lưới bán trú, nội trú trên toàn tỉnh.
Nếu như năm học 2004–2005 toàn tỉnh chỉ có hơn 2.400 học sinh bán trú, không có một ngôi trường bán trú đúng nghĩa nào, thì đến năm học 2025–2026, con số ấy đã vượt 41.000 em tại 85 trường và có đến 62 trường phổ thông có học sinh bán trú. Đằng sau sự phát triển vượt bậc ấy là hệ thống chính sách bài bản: từ Quyết định 85, Quyết định 12, đến Nghị định 116, Nghị định 66… với hàng trăm nghìn lượt học sinh được hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt, giúp duy trì sĩ số và giảm mạnh tình trạng bỏ học. Không chỉ dựa vào chính sách Trung ương, tỉnh Lai Châu còn ban hành các nghị quyết riêng như Nghị quyết 35/2016/NQ-HĐND và Nghị quyết 04/2022/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về hỗ trợ bữa ăn và nuôi dưỡng bán trú, bảo đảm học sinh dù ở nơi xa nhất vẫn được chăm sóc chu đáo. Nhờ đó, những ngôi trường bán trú giữa núi rừng nay đã trở nên khang trang, ấm áp. Mỗi buổi trưa ở Trường PTDTBT THCS Dào San, tiếng kẻng vang lên, cả sân trường rộn rã. Khay cơm nóng hổi, canh rau từ vườn tăng gia, thịt cá đủ đầy. Cũng bởi thế mà tỷ lệ chuyên cần của trường luôn trên 96%, không có học sinh bỏ học giữa chừng. Con chữ ở vùng biên giới đã có nền móng vững vàng.
Thật thiếu sót khi nói về giáo dục vùng cao mà không kể về những người âm thầm cõng chữ lên non. Những người tôi đã gặp thật đáng trân, đáng quý biết bao. Cô Hoàng Thị Giữa, thầy Bùi Văn Thuyên, thầy Hà Chí Tuấn… và nhiều người thậm chí tôi chỉ nhớ được những biểu tượng về tình yêu nghề, sự hy sinh của họ. Cô Bùi Thị Minh Khuyên – giáo viên Trường PTDTBT Tiểu học Pa Ủ, là một trong những người như thế. Mười năm bám bản, cô vận động hơn 6 tỷ đồng từ các nhà hảo tâm, xây phòng học, bếp ăn, mua quần áo mùa đông cho học sinh. Những chuyến đi bộ hàng chục cây số trong mưa gió để vận động học trò trở lại lớp, những bữa cơm chia đôi cho học sinh nghèo… đã trở thành chuyện thường nhật của cô. Ở vùng cao này, những người như cô không hiếm, dù họ phải đánh đổi bằng nỗi cô đơn khi xa nhà, sự thiếu thốn vì ở bản vắng, sự gian khổ vì ngã xe, tai nạn, vì bọ chó ruồi vàng, nhưng hết thảy, họ yêu nghề, mến trẻ.
Và những “chuyến đò” của “các kỹ sư tâm hồn vùng cao” đã dâng cho đời những “hoa thơm, trái ngọt”. Đó là những lứa học trò thành công. Nhiều lắm, kể làm sao hết! Bác sĩ Chang Thị Say, sĩ quan Chẻo Lao U, bí thư đoàn Pờ Vũ Thanh Bình, cô giáo Tẩn Xa Lan… là một vài trong rất nhiều cái tên thành công từ mái trường bán trú, nội trú.
Tại các trường PTDTBT, tỷ lệ hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%; THCS có 99,1% học sinh đạt từ mức Đạt trở lên. Tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt trên 99,9%. Riêng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT trúng tuyển đại học, cao đẳng tăng từ 30,1% năm 2021 lên 44% năm 2025 – mức cao nhất từ trước đến nay. Từ năm 2020 đến 2025, học sinh PTDTBT đạt 3.875 giải học sinh giỏi các cấp. Những con số biết nói ấy khẳng định: mô hình bán trú không chỉ giữ vững việc học, mà còn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn an ninh biên giới.
Dẫu vậy, thách thức vẫn còn đó: nhiều trường xuống cấp, nguồn lực đầu tư hạn chế, mặt bằng để xây dựng rất khó khăn nhưng Lai Châu vẫn giành những vị trí đẹp nhất, tốt nhất cho việc xây trường, dựng lớp. Theo chia sẻ của đồng chí Lê Văn Lương – Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh về định hướng phát triển thời gian tới, được biết: “Giai đoạn 2025–2030, tỉnh đặt mục tiêu xây dựng hệ thống trường bán trú bền vững, toàn diện và nhân văn. Lai Châu sẽ hoàn thành 11 trường nội trú liên cấp tại các xã biên giới, đề nghị xây thêm trường ở những xã đặc biệt khó khăn; đồng thời tiếp tục rà soát mạng lưới trường lớp, kiên cố hóa khu bán trú, nâng cao chất lượng bữa ăn và thực hiện đầy đủ chính sách cho học sinh. Tỉnh đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ giáo viên, nhân rộng các mô hình sáng tạo như “trường học nông trại”, “bán trú gắn kết cộng đồng”, ứng dụng công nghệ số trong quản lý. Chúng tôi sẽ huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và xã hội để mô hình bán trú thực sự trở thành cái nôi ươm mầm ước mơ, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho vùng biên giới.”
Dẫu biết rằng đối với tỉnh còn nhiều khó khăn như Lai Châu thì làm việc gì cũng khó, nhưng với quan điểm chỉ đạo “giáo dục là quốc sách” như Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu, nhìn những thành quả mà Lai Châu đã đạt được, chúng ta có căn cứ để hy vọng vào những “mùa bội thu” của giáo dục nơi đây. Và từ ánh mắt như biết cười của các em học sinh khi túm tụm cùng “anh, chị” bên mâm cơm ở trường PTDTBT Tiểu học và THCS Bum Tở, ta hiểu thêm rằng chính sách của Đảng, Nhà nước đã mang đến cho các em một ngôi nhà thứ hai, ngôi nhà nâng bước các em trên hành trình tìm đến với ánh sáng của tri thức, thành công.
Tác giả: Dư Khánh Kiên