Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Cuộc chiến tranh kết thúc, quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định Giơnevơ, sau 2 năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy nguỵ quân, nguỵ quyền tay sai, viện trợ kinh tế, quân sự, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài. Cả dân tộc ta lại bước vào chiến đấu chống xâm lược mới.
Trải qua 21 năm đấu tranh anh dũng, kiên cường, hy sinh, gian khổ, bền bỉ của nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Với những cách đánh thông minh, mưu trí, dũng cảm quân và dân ta lần lượt đánh bại âm mưu và các chiến lược lớn của Mỹ, Ngụy: chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965); “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam - Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ ở miền Bắc (1965-1968) và chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” - Chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ ở miền Bắc (1969-1973). Tạo thế và lực mới để tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Vào cuối năm 1974, đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam”.
Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng khẳng định “Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam và hạ quyết tâm tập trung lực lượng giải phóng xong trước mùa mưa. Lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định và đặt tên cho chiến dịch là chiến dịch Hồ Chí Minh. Cả nước ra quân với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng”, tư tưởng chỉ đạo là thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng”.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân - dân đồng lòng, đúng 10h45 phút ngày 30/4/1975, xe tăng ta tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, bắt sống ngụy quyền, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện; 11h30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng.
Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc tỉnh Lai Châu phát huy tốt truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ anh hùng, quán triệt và triển khai thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam; vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thực hiện khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và các phong trào “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”...
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ cứu nước (ngày 17/7/1966) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc Lai Châu đã nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vừa sản xuất, vừa chiến đấu đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đóng góp sức người, sức của chi viện cho chiến trường lớn miền Nam; thanh niên Lai Châu hăng hái lên đường tòng quân đánh Mỹ với quyết tâm “giết hết giặc Mỹ mới về mường ta”.
Để chi viện cho chiến trường miền Nam, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc Lai Châu đã động viên hàng vạn con em lên đường ra mặt trận chiến đấu tại các chiến trường B, chiến trường C theo tinh thần “quân không thiếu một người”; thanh niên các dân tộc Lai Châu thực hiện tốt phong trào “Ba sẵn sàng”. Từ cuối năm 1965 đến năm 1968 máy bay Mỹ liên tục đánh phá, gây nhiều tội ác với đồng bào các dân tộc Lai Châu, song với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, không khuất phục trước kẻ thù, quân và dân Lai Châu sẵn sàng chia lửa với quân và dân miền Nam, tổ chức đánh máy bay Mỹ hàng trăm trận, bắn rơi 14 chiếc và làm bị thương nhiều chiếc khác. Chỉ tính riêng năm 1966 quân và dân Lai Châu đã bắn rơi 4 chiếc máy bay Mỹ và bắn bị thương 11 chiếc. Bên cạnh thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tỉnh còn huy động được hàng chục vạn ngày công mở các tuyến đường chiến lược, vận chuyển lương thực, vũ khí ra chiến trường, giúp bộ đội đào hầm, hào, di chuyển trận địa pháo.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Lai Châu đã phối hợp với lực lượng vũ trang Lào đánh 71 trận, tiêu diệt và gọi ra hàng 600 tên địch, thu 400 khẩu súng các loại và nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng khác; Nhân dân các dân tộc Lai Châu đã giúp bạn 19 vạn ngày công phục vụ chiến đấu.
Từ những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước quân và dân Lai Châu đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương và tặng nhiều phần thưởng cao quý. Trong đó, có 4 tập thể, 5 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 12.119 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ các hạng (Nhất, Nhì, Ba); 7.167 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, hạng Nhì và 2.173 chuyên gia quân tình nguyện Việt Nam giúp cách mạng Lào thời kỳ 1945 - 1975 được khen thưởng./.