Dân tộc Kháng
Tên gọi khác: Kháng Xá Khao, Xá Xúa, Xá Ðón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Ái, Xá Bung, Quảng Lâm.
Tên gọi khác: Kháng Xá Khao, Xá Xúa, Xá Ðón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Ái, Xá Bung, Quảng Lâm.
- Số hộ 39; số dân 161 người, chiếm 0,04% dân số toàn tỉnh, phân bố tại các huyện: Than Uyên, Sìn Hồ, Mường Tè và Tam Đường.
- Ðịa bàn cư trú: chủ yếu ở huyện Than Uyên, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
- Phương thức canh tác: Làm rẫy phát đốt chọc lỗ tra hạt, trồng nhiều lúa nếp làm lương thực chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang nhưng không nhiều. Họ chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến. Đồ đan: ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi... Người Kháng thường dùng loại gùi một quai, đeo qua trán. Họ trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái.
- Tục cưới: Trải qua các lễ thức sau: dạm hỏi, xin ở rể, cưới. Lễ cưới lần đầu được tổ chức cho chàng trai đi ở rể. Lễ cưới lần hai, đưa dâu về nhà chồng để gây dựng gia đình riêng. Người cậu có vai trò đặc biệt trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu.
- Tang ma: Theo phong tục người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, có các đồ vật tùy táng dành cho người chết: hòm đựng quần áo, giỏ cơm, ống hút rượu, bát, đũa... phía đầu mộ chôn một cột cao 4-5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ và treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết. Người Kháng có quan niệm mỗi người có 5 hồn, hồn chính trên đầu và 4 hồn kia ở tứ chi.
- Nhà ở: Người Kháng ở nhà sàn. Nhà thường có 3 gian 2 chái, mái kiểu mu rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Trước kia, mái ở hai đầu hồi thường được làm thẳng, hiện nay nhiều nơi đã làm mới hình mái rùa như nhà người Thái Đen. Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để nấu ăn hằng ngày, còn một bếp để sưởi và để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).
- Trang phục: Người Khơ Mú không có nghề dệt vải, nên họ thường dùng sản phẩm đan lát và các sản phẩm khác để trao đổi lấy vải và quần áo của người Thái, nên trang phục của họ giống trang phục của người Thái.