Con đường đến với cách mạng
Sinh năm 1915 trong một gia đình người Mông nghèo ở xã Pú Nhung, ông lớn lên giữa núi non trùng điệp, trong cảnh người dân bị áp bức bởi giặc Pháp và chế độ thổ ty, địa chủ. Không được học hành bài bản nhưng Sùng Phái Sinh lại sớm ý thức về nỗi đau mất nước, về sự đói nghèo của đồng bào mình. Ông nổi tiếng từ nhỏ là người quyết đoán, ngay thẳng, có uy tín lớn với dân bản.
Năm 1949, khi ánh sáng cách mạng vừa le lói ở vùng rẻo cao, ông là một trong những người đầu tiên ở Pú Nhung bí mật liên lạc với cán bộ, tổ chức quần chúng, tuyên truyền đường lối của Đảng. Ông vận động dân bản tham gia nuôi giấu cán bộ, giấu lương thực, thành lập các tổ sản xuất giúp dân chống đói, giữ đất. Đó là những ngày tháng cam go khi tiếng súng giặc chưa ngớt, nhưng cũng là khởi đầu cho con đường cách mạng không lùi bước của một người con núi rừng.
Người chỉ huy du kích giữa đại ngàn
Đầu năm 1950, ông đứng ra thành lập Đội du kích Pú Nhung gồm 6 chiến sĩ, vũ khí chỉ có súng kíp, dao nhọn, gậy tre. Với sự thông thuộc địa hình, nhạy bén trong chiến thuật và gắn bó máu thịt với dân, ông chỉ huy đội tổ chức nhiều trận phục kích, tập kích hiệu quả. Địa hình hiểm trở, nhiều khe núi, đường mòn trong rừng già là lợi thế để đội du kích áp dụng lối đánh “xuất quỷ nhập thần”.
Trong hai năm 1951–1952, đội du kích của ông đẩy lùi hàng chục cuộc càn quét lớn nhỏ. Có trận, hơn 300 lính Âu – Phi có vũ khí hiện đại tràn lên Pú Nhung, nhưng ông cho giăng bẫy đá, đào hầm chông, chặn đánh từ ba hướng. Quân địch hoảng loạn rút lui, bỏ lại nhiều xác chết và vũ khí. Dân bản khi ấy gọi ông là “bóng ma rừng Pú Nhung” – một biểu tượng của mưu trí và lòng dũng cảm. Đội du kích nhỏ bé ngày nào đã trở thành chỗ dựa tin cậy cho các lực lượng cách mạng mở rộng ra toàn vùng.
Cuối năm 1952, thực dân Pháp tập trung củng cố hệ thống phòng thủ tại Tây Bắc, trong đó đồn Tuần Giáo là chốt trọng yếu. Lực lượng chủ lực của ta đang tiến quân, nhưng cần phải hóa giải cứ điểm này. Trong chiến dịch phối hợp, Sùng Phái Sinh được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng du kích phối hợp bao vây đồn.
Với tài dân vận và chiến thuật tâm lý, ông cho tung tin giả, tổ chức rút nước suối, chặn đường tiếp tế, cho du kích mặc quân phục giả lính chính quy để tạo áp lực. Sau nhiều ngày vây ép, 25 lính trong đồn đã ra hàng, đồn bị phá mà không tốn một viên đạn. Đây là một trong những chiến công du kích nổi bật, góp phần phá vỡ thế kìm kẹp của địch tại Tuần Giáo, mở đường cho chiến dịch Điện Biên Phủ sau này.
Gieo mầm cách mạng và giữ thế trận lòng dân
Không chỉ đánh giặc, ông còn đặc biệt chú trọng việc giữ dân, xây dựng tổ chức. Chỉ trong vòng 5 năm, ông cùng các đồng chí phát triển cơ sở ở 16 bản, thành lập hơn 50 tổ sản xuất tự quản. Những tổ chức này vừa lo sản xuất, vừa bảo vệ an ninh, tiếp tế cho bộ đội, là “tai mắt” của cách mạng.
Pú Nhung từ vùng trắng đã trở thành “vành đai đỏ”, là điểm tựa hậu cần, trạm trung chuyển người và lương thực cho mặt trận Tây Bắc. Tư duy tổ chức của Sùng Phái Sinh được nhiều cán bộ cấp trên ghi nhận là “kiến tạo thế trận nhân dân giữa rừng xanh”.
Được Đảng và Bác Hồ ghi nhận
Với những chiến công và cống hiến to lớn, ngày 7/5/1956 – kỷ niệm 2 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ – ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Cùng thời điểm, ông nhận Huân chương Quân công hạng Ba. Sau đó, ông tiếp tục được trao Huân chương Chiến công hạng Nhất, hai lần được bầu là Chiến sĩ thi đua Quân khu Tây Bắc.
Tấm gương của ông trở thành hình mẫu cho cán bộ dân tộc thiểu số học tập. Nhiều năm sau, tên tuổi ông được đưa vào các đợt tuyên truyền giáo dục truyền thống cho học sinh, dân quân, bộ đội địa phương.
Máu thịt của núi rừng Tây Bắc
Anh hùng Sùng Phái Sinh là người con tiêu biểu của dòng họ Sùng tại xã Pú Nhung – dòng họ lớn của người Mông với truyền thống yêu nước, hiếu học và phụng sự Nhân dân. Hôm nay, nhiều người trong dòng họ ông đang giữ trọng trách trong hệ thống chính trị và các ngành nghề khác nhau.
Tên ông được đặt cho một con đường lớn ở Thành phố Điện Biên Phủ – như một cách để các thế hệ hôm nay không quên người đã góp phần dựng xây nền độc lập từ núi rừng. Mộ phần của ông được đặt tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Tuần Giáo, bên cạnh thiếu niên anh hùng Vừ A Dính – cuộc “trùng phùng” giữa hai người con bất khuất của núi rừng Pú Nhung.
Lời nhắc nhở giữa non cao
Tấm gương Sùng Phái Sinh là khúc tráng ca bất tận trong bản hùng ca Điện Biên Phủ. Nhắc đến ông là nhắc đến người đội trưởng du kích cương trực, người Mông yêu nước suốt đời, người lãnh đạo Nhân dân bằng lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm.
Càng nhìn lại lịch sử, chúng ta càng biết ơn những con người như ông – những người đã thắp lửa giữa rừng sâu, gieo mầm cách mạng trên đỉnh trời Tây Bắc và để lại ngọn lửa soi sáng cho hôm nay và mai sau.