Lai Châu: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường
Chủ nhật - 12/08/2018 04:082.1720
5 năm qua thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Lai Châu đã đạt được kết quả tích cực.
Bám sát sự chỉ đạo của Trung ương về quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, Tỉnh uỷ đã ban hành kế hoạch, lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp tổ chức quán triệt, học tập, tuyên truyền tới cán bộ, đảng viên, Nhân dân các dân tộc bằng nhiều hình thức: hội nghị, chương trình đào tạo, hội thảo, tập huấn, giáo dục bồi dưỡng kiến thức… Các địa phương, đơn vị đã cụ thể hóa bằng chương trình, kế hoạch, đề án để triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương (UBND tỉnh ban hành 12 chỉ thị, chương trình, kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật và nhiều đề án về lĩnh vực đất đai, khoáng sản, môi trường; các huyện ủy, thành ủy đã chỉ đạo ủy ban nhân dân huyện, thành phố ban hành văn bản để tổ chức thực hiện các nội dung về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường tại địa phương).
Tập trung phát triển nông nghiệp dựa trên thế mạnh từng vùng và lợi thế so sánh với các vùng trong tỉnh, trong vùng và cả nước, áp dụng các biện pháp canh tác, phòng trừ sâu bệnh tiên tiến nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường như: GAP, nông nghiệp hữu cơ, IPM, canh tác trên đất dốc, 3 giảm 3 tăng,...; hỗ trợ, khuyến khích chăn nuôi tập trung và xử lý thu gom chất thải trong chăn nuôi; đưa nhiêu giống cây, loại cây lâm nghiệp có giá trị phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh: cao su, quế, mắc ca, sơn tra và các giống bản địa như: tống quá sủ, vối thuốc... Đầu tư thực hiện 02 dự án Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2013-2017, với tổng số vốn 187.164 triệu đồng, trong đó: vốn nước ngoài (ODA) 181.164 triệu đồng, vốn ngân sách địa phương 6.000 triệu đồng; tổng số vốn đầu tư thực hiện Chương trình mục tiêu phát triên lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2013-2017 là 57.031 triệu đồng vốn kế hoạch trung hạn.
Năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biển đổi khí hậu của các cơ quan, tổ chức và nhân dân được nâng lên. Thường xuyên cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050; chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỳ thuật sản xuất, tập trung các biện pháp ứng phó với các dạng thời tiết cực đoan; tổ chức hội thảo, tập huấn nhận thức về thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai; hằng năm chỉ đạo tổ chức diễn tập phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trước mùa mưa lũ; tổ chức di chuyển khẩn cấp các hộ nằm trong vùng nguy hiểm đến nơi an toàn; kiểm tra, đánh giá và xử lý các hạng mục hư hỏng, nâng cấp công trình đảm bảo an toàn khi mùa mưa lũ đến. Củng cố mạng lưới thông tin liên lạc từ tỉnh đến cơ sở, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt phục vụ phòng, chống thiên tai và tìm kiểm cứu nạn; phổ biến kiến thức, kinh nghiệm trong việc chủ động phòng, chống thiên tai, nâng cao khả năng chuẩn bị, ứng phó, phục hồi của cộng đồng trước, trong và sau thiên tai...
Chú trọng việc bảo tồn, nâng cao trữ lượng các bon và quản lý bền vững tài nguyên rừng; ưu tiên cho các công trình, dự án trọng điểm phục vụ bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dự báo, cảnh báo cháy rừng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tham gia bảo vệ, phát triển và đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng; tích cực đưa các biện pháp nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp (bón đúng tỷ lệ các chất dinh dưỡng; ứng dụng hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI); biện pháp 1 phải và 5 giảm (1P5G), sử dụng phế thải nông nghiệp làm thức ăn gia súc hoặc làm phân bón; xử lý chất thải trong chăn nuôi bằng các biện pháp biogas…).
Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến các nguồn tài nguyên; triển khai thực hiện việc điều tra, lập quy hoạch phân bố tài nguyên nước mặt đến năm 2025 tầm nhìn năm 2035; tạo quỹ đất để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương; định hướng, bố trí sử dụng tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, nhất là việc chuyển mục đích đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ sang đất phi nông nghiệp (từ 2013-2017: đã thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất 34.988,63 ha; cấp 336.486 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất).
Tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản ở khu vực chưa thăm dò đối với 06 khu vực khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường; kịp thời phê duyệt bổ sung vào quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản, phê duyệt khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản (tỉnh hiện có khoảng 3.700 công trình khai thác, sử dụng nước mặt phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân địa phương; 67 công trình thủy điện được phê duyệt quy hoạch, với tổng công suất lắp máy 3.004MW; điện lượng bình quân năm 11,3 tỷ kWh; 41 dự án đã được tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư/quyết định chủ trương đầu tư, với tổng công suất lắp máy 2.758,5 MW; 23 công trình được cấp giấy phép khai thác, sử dựng nước.
Triển khai lồng ghép có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; tuyên truyền, phổ biến nâng cao ý thức, nhận thức của nhân dân về bảo vệ và giữ gìn môi trường; đẩy mạnh các dự án trồng rừng vả bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc đặc biệt tại các vùng có nguy cơ lũ quét và sạt lở đất (tính đến 31/12/2017, độ che phủ rừng toàn tỉnh đạt 48,16%). Gắn bảo vệ môi trường với quy hoạch chỉnh trang đô thị, đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng về bảo vệ môi trường tại các khu dân cư tập trung; khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân, hạn chế tác động do ô nhiễm môi trường đến sức khỏe của nhân dân (hiện nay tỷ lệ dân số nông thôn trên địa bàn tỉnh được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 78,5%, tỷ lệ hộ gia đinh ở nông thôn được sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 38,02%); bảo vệ đa dạng sinh học, nhất là bảo tồn loài, nguồn gen nguy cấp, quý hiếm, động vật hoang dã, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi phá rừng, khai thác rừng, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép gây ảnh hưởng đến công tác quản lý bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh còn một số hạn chế, bất cập như: Việc tích hợp và lồng ghép biến đổi khí hậu với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội có nội dung chưa được coi trọng; nhiều nhiệm vụ, dự án thực hiện kế hoạch hành động ứng phó với biến đối khí hậu của tỉnh giai đoạn 2010-2015 đến nay chưa được triển khai thực hiện; cơ chế điều phối thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu tại địa phương chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ; việc bố trí, sắp xếp dân cư tại một số điểm triển khai còn chậm; đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về thủy lợi và phòng chống thiên tai còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu; việc hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra thực hiện tới cấp xã, bản chưa thường xuyên. Các dự án điều tra cơ bản về tài nguyên, đa dạng sinh học chưa được thực hiện nên thiếu thông tin, cơ sở dữ liệu để phục vụ công tác quản lý, hoạch định phát triển; chi phí cho hoạt động bảo vệ môi trường chủ yếu tập trung xử lý rác thải, chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung tại các khu đô thị; chưa có trạm quan trắc, giám sát môi trường tự động nên thiếu chuỗi số liệu liên tục về chất lượng môi trường nền của tỉnh; công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường gặp nhiều khó khăn do thiếu máy móc, thiết bị.
Thời gian tới, để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh sự cần thiết phải: tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường của người dân, cộng đồng, doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể, xử lý nghiêm các hành vi sử dụng lãng phí tài nguyên, đốt phá rừng, gây ô nhiễm môi trường, săn bắt, tiêu thụ động vật hoang dã; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là người đứng đầu, xác định đây là một trong những nhiệm vụ chính trị quan của địa phương, đơn vị; có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế, mọi người dân chung tay, tham gia thực hiện các hoạt động quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.../.
Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thôngt ư số 19/2021/TT-BTC ngày 18/3/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế