Việt Nam luôn khẳng định và bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số
Thứ ba - 01/10/2024 19:081.3260
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với sự hiện diện của 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Trong suốt lịch sử phát triển, Nhà nước Việt Nam luôn duy trì và thúc đẩy các chính sách công bằng, đảm bảo sự phát triển và bảo tồn văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán của tất cả các nhóm dân tộc. Chính phủ Việt Nam không chỉ công nhận mà còn hỗ trợ mạnh mẽ cho các dân tộc thiểu số trong nhiều lĩnh vực, từ pháp lý đến kinh tế, xã hội và văn hóa.
Việt Nam luôn khẳng định và bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số thông qua các quy định pháp luật và chính sách quốc gia. Điều này được thể hiện rõ trong Hiến pháp 2013, văn bản pháp lý cao nhất của Việt Nam. Điều 5 của Hiến pháp quy định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Bên cạnh đó, Việt Nam là thành viên của nhiều công ước quốc tế quan trọng về nhân quyền, bao gồm Công ước quốc tế về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD). Trong quá trình thực thi Công ước này, Việt Nam đã tích cực báo cáo và đối thoại với các tổ chức quốc tế, cam kết xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử liên quan đến dân tộc, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững và công bằng cho tất cả các dân tộc trong nước.
Trong Báo cáo quốc gia lần thứ 5 về thực thi Công ước CERD mà Việt Nam đã trình bày tại Ủy ban CERD vào tháng 11/2023, Việt Nam đã nêu rõ các chính sách hỗ trợ và ưu đãi cho các dân tộc thiểu số nhằm phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa. Báo cáo cũng khẳng định rằng mọi người dân, bất kể dân tộc nào, đều có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ công cộng, giáo dục và chăm sóc y tế.
Không chỉ dừng lại ở việc công nhận quyền của các dân tộc, Chính phủ Việt Nam còn thực hiện nhiều chính sách cụ thể để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh. Các chương trình như Chương trình 135 hay Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã và đang mang lại những thay đổi tích cực cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi điều kiện kinh tế – xã hội còn gặp nhiều khó khăn.
Từ năm 2013 đến nay, Chính phủ đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế cho các vùng dân tộc thiểu số. Những chính sách này bao gồm việc xây dựng trường học, trạm y tế, hệ thống cấp nước và đường giao thông để cải thiện cuộc sống cho người dân. Các chính sách cũng giúp đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận các nguồn lực sản xuất và khuyến khích họ giữ gìn bản sắc văn hóa riêng của mình.
Một ví dụ tiêu biểu là việc hỗ trợ giáo dục song ngữ cho trẻ em dân tộc thiểu số. Hiện tại, cả nước đang giảng dạy và học tập bằng sáu ngôn ngữ dân tộc thiểu số (bao gồm tiếng Mông, Chăm, Khơ Me, Jrai, Ba Na, và Ê Đê). Điều này không chỉ giúp trẻ em dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ mà còn giúp họ tiếp cận tốt hơn với tiếng Việt, ngôn ngữ chính thức của quốc gia, từ đó tạo điều kiện để họ hòa nhập và phát triển.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng Việt Nam không sử dụng khái niệm “dân tộc bản địa”, mà chỉ có khái niệm dân tộc thiểu số. Điều này xuất phát từ quá trình lịch sử lâu dài của quốc gia, khi các nhóm dân tộc sinh sống đan xen, không có nhóm nào sở hữu một lãnh thổ riêng biệt. Các chính sách dân tộc của Việt Nam hướng đến mục tiêu xây dựng sự đoàn kết và phát triển đồng đều cho tất cả các dân tộc, bất kể dân tộc đó chiếm đa số hay thiểu số.
Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực trong các cơ chế nhân quyền quốc tế mà còn được ghi nhận với nhiều thành tựu về bảo vệ quyền con người, bao gồm quyền của các dân tộc thiểu số. Tại các phiên rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Liên Hợp Quốc, nhiều quốc gia đã đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền dân tộc thiểu số và xóa bỏ mọi hình thức phân biệt.
Tổ chức Liên Hợp Quốc và các cơ chế quốc tế khác đã nhiều lần khẳng định rằng Việt Nam là một ví dụ điển hình trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), trong đó có các mục tiêu liên quan đến việc giảm nghèo, bảo vệ các nhóm yếu thế và đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả các dân tộc. Những thành tựu này đã giúp Việt Nam tạo dựng một hình ảnh tích cực trong cộng đồng quốc tế, khẳng định cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Vậy mà không ít kẻ lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá Việt Nam, thậm chí, chúng vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền với nhận định vừa có tính chủ quan, vừa có tính thâm độc khi cho rằng: Chính phủ Việt Nam phủ nhận sự tồn tại của các nhóm dân tộc thiểu số trong nước.
Với âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, những kẻ giả danh nhà hoạt động nhân quyền không từ thủ đoạn nào, chúng tung tin bịa đặt, liên kết với các cá nhân, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước vu cáo về chính sách dân tộc của Chính phủ Việt Nam, cho rằng “Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”, “các dân tộc thiểu số đang bị đồng hóa, phân biệt đối xử vì khác biệt văn hóa”…Đồng thời, lợi dụng một số khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số để lôi kéo, kích động bạo lực, kích động tư tưởng li khai, tự trị của một số nhóm đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết về những chính sách ưu tiên phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước.
Như vậy, những cáo buộc cho rằng Chính phủ Việt Nam phủ nhận sự tồn tại của các nhóm dân tộc thiểu số là hoàn toàn sai lệch. Những cáo buộc này thường không dựa trên thực tế và không phản ánh đúng chính sách của Việt Nam. Trên thực tế, những luận điệu xấu độc về chính sách dân tộc ở Việt Nam chỉ là những âm mưu, thủ đoạn nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá đất nước. Nó đi ngược với những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam đã được quốc tế công nhận, khẳng định rằng quyền bình đẳng và phát triển của các dân tộc thiểu số luôn là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện của đất nước.
Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thôngt ư số 19/2021/TT-BTC ngày 18/3/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế