Chiến thắng 30/4/1975 thể hiện tinh thần khát khao độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất của toàn thể dân tộc, vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang tầm thời đại
Cách đây 48 năm, vào cuối năm 1974, đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, ngày 25/3/1975, Bộ chính trị Trung ương Đảng khẳng định "Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam và hạ quyết tâm tập trung lực lượng giải phóng xong trước mùa mưa. Lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định và đặt tên cho chiến dịch là chiến dịch Hồ Chí Minh. Cả nước ra quân với tinh thần "đi nhanh đến, đánh nhanh thắng", tư tưởng chỉ đạo là thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng". Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân - dân đồng lòng, đúng 10h45 phút ngày 30/4/1975, xe tăng ta tiến thẳng vào dinh Độc Lập, bắt sống ngụy quyền, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện; 11h30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc phủ tổng thống Ngụy báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng.
Chiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc, khẳng định tầm vóc vĩ đại, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình của cả dân tộc, đánh dấu bước ngoặt quyết định đưa nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, đó là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành đấu tranh giải phóng khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho dân tộc ta nhiều bài học vô giá, có ý nghĩa quan trọng đối với hôm nay và các thế hệ mai sau. Thắng lợi đó là thành quả của nhiều nhân tố, trong đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một nhân tố cơ bản, quan trọng. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Dựa vững trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã đưa ra được những quyết định sáng suốt và chính xác, trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới và trong nước, tương quan lực lượng giữa ta và địch để xác định đúng thời cơ lịch sử, hạ quyết tâm chiến lược mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đánh bại hoàn toàn đội quân của chính quyền Sài Gòn, giành thắng lợi triệt để trong thời gian ngắn nhất. Việc đưa ra những quyết định mang tính lịch sử thể hiện tài thao lược, thông minh, sáng tạo tuyệt vời của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Đường lối, chủ trương của Đảng phản ánh ý chí, khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử để nhân dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng dân tộc, thống nhất non sông.
Chiến thắng 30/4/1975 xuất phát từ tinh thần khát khao độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất của toàn thể dân tộc, vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang tầm thời đại; thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ, ý chí “dòng máu Lạc Hồng”, không bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Đồng thời, khẳng định một chân lý: Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một quốc gia đất không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác-xít chân chính có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là đế quốc hùng mạnh nhất.
Đánh giá về tầm vóc và ý nghĩa sự kiện lịch sử này, Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên CNXH.
Những đóng góp của quân và Nhân dân các dân tộc Lai Châu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc tỉnh Lai Châu phát huy tốt truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ anh hùng, quán triệt và triển khai thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược được Đảng xác định: vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam; vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thực hiện khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và các phong trào “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”... Đặc biệt, hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc Lai Châu đã nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vừa sản xuất, vừa chiến đấu đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đóng góp sức người, sức của chi viện cho chiến trường lớn miền Nam; thanh niên Lai Châu hăng hái lên đường tòng quân đánh Mỹ với quyết tâm “giết hết giặc Mỹ mới về mường ta”.
Trên mặt trận sản xuất, trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn, song với tinh thần “phất cờ Điện Biên, quyết thắng vụ mùa, thi đua thắng Mỹ”, quân, dân Lai Châu vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chủ động địch đến thì đánh, địch rút thì sản xuất; tăng cường thâm canh tăng vụ, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; góp phần giải quyết tình trạng thiếu đói, từng bước tự túc lượng thực và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước. Vì vậy, mặc dù đời sống của Nhân dân các dân tộc trong tỉnh tuy còn không ít khó khăn, nhưng vì tiền tuyến lớn miền Nam, Lai Châu với tinh thần“thóc không thiếu một cân” đã đóng góp đầy đủ nghĩa vụ lương thực với Nhà nước, năm 1974, ngành thương nghiệp Lai Châu được Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa về thành tích thu mua thịt lợn hơi vượt kế hoạch trên giao.
Để chi viện cho chiến trường miền Nam, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc Lai Châu đã động viên hàng vạn con em lên đường ra mặt trận chiến đấu tại các chiến trường B, chiến trường C theo tinh thần “quân không thiếu một người”. Trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân và dân Lai Châu đã phát huy truyền thống đoàn kết, nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, xây dựng “Lai Châu từng bước thành căn cứ vững chắc, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến tranh du kích toàn diện và lâu dài, đồng thời tích cực giúp đỡ cách mạng Lào”. Từ cuối năm 1965 đến năm 1968 máy bay Mỹ liên tục đánh phá, quân và dân Lai Châu sẵn sàng chia lửa với quân và dân miền Nam, tổ chức đánh máy bay Mỹ hàng trăm trận, bắn rơi 14 chiếc và làm bị thương nhiều chiếc khác. Đồng thời, huy động hàng chục vạn ngày công mở các tuyến đường chiến lược, vận chuyển lương thực, vũ khí ra chiến trường, giúp bộ đội đào hầm, hào, di chuyển trận địa pháo.
Cùng với đánh địch trên không, nhiệm vụ đánh địch mặt đất cũng được đẩy mạnh. Quân và dân Lai Châu luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh có hiệu quả, diệt và bắt sống nhiều tên gián điệp, biệt kích thâm nhập vào địa bàn. Nổi bật như mùa khô năm 1966, bộ đội địa phương đánh bại các hoạt động phỉ ở sát biên giới Việt Nam - Lào, đập tan âm mưu thả gián điệp, biệt kích xâm nhập nội địa của ta; ngày 20/6/1967 lực lượng dân quân hai xã Mường Nhà và Hạnh phúc (nay là xã Phình Giàng, huyện Điện Biên Đông) đã tiêu diệt và bắt gọn toán biệt kích 12 tên khi vừa đặt chân xuống địa bàn; từ năm 1968 đến năm 1972 hằng năm quân và dân Lai Châu đã chiến đấu tiêu diệt và bắt gọn những toán biệt kích, gián điệp hàng trăm tên xâm nhập vào địa bàn và khu vực biên giới Việt - Lào. Cùng với đó, thường xuyên cử cán bộ, chiến sỹ giúp đỡ cách mạng Lào với tinh thần sẵn sàng hy sinh xương máu vì sự nghiệp cách mạng nhân dân Lào anh em. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Lai Châu đã phối hợp với lực lượng vũ trang Lào đánh 71 trận, tiêu diệt và gọi ra hàng 600 tên địch, thu 400 khẩu súng các loại và nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng khác; Nhân dân các dân tộc Lai Châu đã giúp bạn 19 vạn ngày công phục vụ chiến đấu.
Từ những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước quân và dân Lai Châu đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương và tặng nhiều phần thưởng cao quý. Trong đó, có 4 tập thể, 5 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 12.119 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ các hạng (Nhất, Nhì, Ba); 7.167 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, hạng Nhì và 2.173 chuyên gia quân tình nguyện Việt Nam giúp cách mạng Lào thời kỳ 1945 - 1975 được khen thưởng.
Phát huy tinh thần của chiến thắng 30/4/1975, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Lai Châu tiếp tục tăng cường đoàn kết; nêu cao tinh thần chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên, quyết tâm xây dựng quê hương phát triển nhanh và bền vững, cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.