Lai Châu quyết tâm giảm nghèo bền vững

Thứ tư - 11/11/2020 22:33 1.897 0
Nhờ phát huy những thành tựu đạt được và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, sự đồng thuận của Nhân dân, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm cao qua hằng năm, từ 40,4% đầu năm 2016 còn 20,12% hết năm 2019, và hết năm 2020 ước đạt 16,49%, bình quân giảm 4,75%/năm
Nhân dân xã San Thàng, thành phố Lai Châu góp công làm đường giao thông nội đồng
Nhân dân xã San Thàng, thành phố Lai Châu góp công làm đường giao thông nội đồng
Mục tiêu giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn, nhóm dân cư là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách giảm nghèo ngày càng được quan tâm, mang tính hệ thống, hỗ trợ có hiệu quả hơn đối với người nghèo.

Lai Châu là một tỉnh vùng cao biên giới, diện tích tự nhiên chủ yếu là địa hình dốc, chia cắt nên tỷ lệ đất sản xuất và đất có khả năng sản xuất thấp. Có đường biên giới dài 265,165 km, tiếp giáp với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Năm 2016, toàn tình có 75/96 xã đặc biệt khó khăn, có 6/7 huyện thuộc danh sách 61 huyện nghèo của cả nước, tỷ lệ hộ nghèo chiếm: 40,4%. Có 20 dân tộc anh em cùng sinh sống, bên cạnh những dân tộc có điều kiện phát triển khá là những dân tộc đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Chính vì vậy, công tác giảm nghèo luôn được Đảng bộ, chính quyền các cấp của tỉnh Lai Châu đặc biệt coi trọng và xác định là một trong những Chương trình trọng điểm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 

Với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống từ tỉnh đến cơ sở, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm trung bình 5,07%/năm trong giai đoạn 2016-2019, từ 40,4% đầu năm 2016 xuống còn 20,12% cuối năm 2019. Ước thực hiện giai đoạn 2016-2020 tỷ lệ hộ nghèo giảm trung bình 4,75%/năm. Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh tăng từ 18,2 triệu đồng năm 2015 lên 36,9 triệu đồng năm 2019. Trong giai đoạn 2016-2019 toàn tỉnh có 02 huyện ra khỏi huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ và có 19/66 xã hoàn thành mục tiêu Chương trình 135.

Có được kết quả đó, bên cạnh việc phát huy những thành tựu đạt được là sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, sự đồng thuận của Nhân dân. Cấp ủy các cấp đều ban hành Nghị quyết về giảm nghèo bền vững; bộ máy chỉ đạo điều hành được thành lập để tham mưu triển khai các chính sách đến với đối tượng thụ hưởng đảm bảo hiệu quả, đúng quy định; hệ thống các cơ quan thực thi chính sách có kinh nghiệm, có năng lực trong công tác giảm nghèo ở địa phương. 

Đặc biệt, tỉnh đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, cơ bản phù hợp với thực tiễn nghèo đói của tỉnh; lựa chọn các vùng, các dân tộc đặc biệt khó khăn, các lĩnh vực có lợi thế của tỉnh, phù hợp với trình độ của người dân để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và nguồn lực. Từ nguồn vốn của Trung ương và của tỉnh thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo đã thực hiện đầu tư 515 công trình và duy tu bảo dưỡng 593 công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh như đường giao thông nông thôn, trường học, thủy lợi, nước sinh hoạt...; hỗ trợ chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi cho 200 nghìn lượt hộ; hỗ trợ giao khoán chăm sóc, bảo vệ 396 nghìn ha rừng; hỗ trợ mua bảo hiểm y tế miễn phí (trên 1 triệu lượt hộ)...  Do đó, đã phát huy được hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc thực hiện hoàn thành các mục tiêu giảm nghèo trên địa bàn. 

Ngoài ra, công tác giảm nghèo của tỉnh thời gian qua luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương; sự ủng hộ, giúp đỡ của các Tập đoàn kinh tế, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh đã được bố trí trên 2.344 tỷ đồng cho công tác giảm nghèo, trong đó nguồn vốn ngân sách trung ương đóng vai trò chủ đạo (chiếm 88,3%).

Mặc dù hằng năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm theo kế hoạch đề ra nhưng kết quả giảm nghèo chưa bền vững, các hộ mới thoát nghèo đời sống còn rất khó khăn, nguy cơ tái nghèo cao; năng lực một số cán bộ thực hiện công tác giảm nghèo còn hạn chế; việc điều tra khảo sát nhu cầu hỗ trợ của người nghèo ở một số nơi chưa sát thực tế. Hình thức, nội dung tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về giảm nghèo chưa phù hợp với từng đối tượng. Một bộ phận người nghèo, hộ nghèo còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Việc huy động nguồn lực tại chỗ để giúp đỡ các hộ nghèo, nhất là huy động của người dân và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn rất hạn chế vì là tỉnh nghèo, đời sống người dân vẫn còn nhiều khó khăn, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ... Tất cả trở thành những thách thức lớn đối với công tác giảm nghèo bền vững ở Lai Châu hiện nay.  Toàn tỉnh có 4/7 huyện nghèo; 62/94 xã đặc biệt khó khăn, 22 xã biên giới; còn gần 20.000 hộ nghèo, tỷ lệ hơn 16%; hơn 10.000 hộ cận nghèo, tỷ lệ hơn 10%.  

Để công tác giảm nghèo đạt được mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra cho giai đoạn 2020 - 2025 là giảm bình quân hộ nghèo 3%/năm, huyện nghèo giảm 4%/năm, đòi hỏi tỉnh tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những khuyết điểm, hạn chế trong công tác quản lý, điều hành, đề ra giải pháp phù hợp, thiết thực, sát với tình hình thực tiễn. 

Trước hết cần cụ thể hóa kịp thời, hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, chính sách về giảm nghèo; tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp dân cư và người nghèo bằng nhiều hình thức và nhiều thứ tiếng để phù hợp với phong tục, tập quán của mỗi dân tộc nhằm thay đổi và chuyển biến nhận thức trong giảm nghèo, khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả chính sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng để thoát nghèo. 

Đồng thời, tỉnh cũng cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng để tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế, tập trung vào hệ thống giao thông nông thôn, đường nội đồng, thủy lợi, nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn; phát triển hệ thống trường học, trạm y tế, bưu chính viễn thông.... Giảm nghèo nhưng phải đảm bảo tính bền vững, do đó giảm dần các chính sách cho không, các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; tăng các chính sách hỗ trợ gián tiếp, hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã. Thu hút, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, ưu tiên đối với lĩnh vực nông nghiệp và lĩnh vực phi nông nghiệp có sử dụng nhiều lao động. Thực hiện tốt tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển các sản phẩm chủ lực gắn với thực hiện triển khai Chương trình mỗi xã một sản phẩm.

Năng lực cán bộ luôn là vấn đề quyết định cho hoạt động hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị các cấp nói chung và làm công tác giảm nghèo nói riêng, cho nên cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; điều động luân chuyển cán bộ có năng lực giữ vị trí chủ  chốt ở huyện, xã khó khăn để nâng cao công tác tham mưu, đề xuất các cơ chế, chính sách sáng tạo, đột phá phù hợp với điều kiện đặc thù vùng cũng như tổ chức thực hiện thiết thực và hiệu quả các chủ trương, chính sách về giảm nghèo bền vững. Chú trọng đào tạo nghề để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, lao động là người dân tộc thiểu số; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động khu vực nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; đào tạo phải gắn Chương trình tái cơ cấu nông nghiệp, nhu cầu của các doanh nghiệp, xã hội; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo, nâng cao chất lượng lao động.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và uốn nắn những sai phạm trong tổ chức thực hiện kế hoạch và các chính sách giảm nghèo. Thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ thông tin báo cáo định kỳ và đột xuất, tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện...

Với tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm cao qua từng năm là kết quả xứng đáng cho một nhiệm kỳ nỗ lực vượt khó vươn lên của Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Lai Châu trong công cuộc giảm nghèo bền vững. Đâychính là động lực để cả hệ thống chính trị quyết tâm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này trong những năm tiếp theo./.

Tác giả: Cảnh Võ

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Văn bản mới

Số: 47/2024/TT-BTC

Thông tư Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, miễn, quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ

lượt xem: 5056 | lượt tải:107

Số: 46/2024/TT-BTC

Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thôngt ư số 19/2021/TT-BTC ngày 18/3/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế

lượt xem: 4717 | lượt tải:112

Số: 72/2024/NĐ-CP

Nghị định Quy định chính sách giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 142/2024/QH15 ngày 29 tháng 6 năm 2024 của Quốc hội

lượt xem: 5704 | lượt tải:158

Số: 43/2024/TT-BTC

Thông tư Quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh

lượt xem: 5649 | lượt tải:125

Số: 54/2024/NĐ-CP

Nghị dịnh Quy định việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

lượt xem: 6879 | lượt tải:256
  • Đại hội thi đua yêu nước tỉnh Lai Châu lần thứ V (2020-2025)

    Trong 2 ngày (27-28/7/2020) Đại hội thi đua yêu nước tỉnh Lai Châu lần thứ V...

hienphapvn
  • Đang truy cập106
  • Hôm nay25,328
  • Tháng hiện tại514,322
  • Tháng trước668,260
  • Tổng lượt truy cập34,906,408
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
top
down