Đào tạo nhân lực có tay nghề cao ở Lai Châu - Những vấn đề đặt ra
Chủ nhật - 05/05/2019 21:212.2360
Trong 5 năm qua, thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư khóa XI, công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao nói riêng đã được cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt được kết quả tích cực. Từ năm 2014 đến 2018, toàn tỉnh có trên 30 nghìn lao động được đào tạo nhiều ngành nghề khác nhau, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đến cuối năm 2018 lên 46,58%, cung cấp nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và xây dựng nông thôn mới.
Các cấp ủy, chính quyền đã kịp thời tuyên truyền, phổ biến,cụ thể hóa Chỉ thị số 37-CT/TW và kế hoạch của Tỉnh ủy để lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao phù hợp với đặc điểm của tỉnh vùng cao, biên giới, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Mạng lưới cơ sở dạy nghề được chú trọngquy hoạch,xây dựng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề trong tỉnh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị các ngành nghề trọng điểm được đầu tư tương đối đồng bộ, hiện đại, từng bước đáp ứng đào tạo theo nhu cầu thị trường lao động. Quan tâm đào tạo nhà giáo đạt chuẩn theo từng cấp độ chuyên môn, nghiệp vụ; tin học và ngoại ngữ; thường xuyên bổ sung, cập nhật chương trình, giáo trình. Bước đầu phối hợp với các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình, đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên. Công tác quản lý nhà nước, hợp tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao được quan tâm thực hiện. Các cơ chế, chính sách về đào tạo lao động có tay nghề cao, nhất là đào tạo cán bộ, công chức, viên chức được triển khai thực hiện tốt. Chú trọng chính sách hỗ trợ, tạo việc làm cho đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn, khuyết tật, dân tộc thiểu số. Hoạt động kiểm tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, chính sách cho người học nghề được thực hiện công khai, minh bạch.
Song nhìn vào kết quả thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao trên địa bàn tỉnh những năm qua vẫn còn những hạn chế, bất cập và vấn đề đặt ra.Trước tiên có thể thấy rõ đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng cho sự phát triển bền vững của địa phương nhưng một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm tổ chức quán triệt, học tập, tuyên truyền Chỉ thị số 37-CT/TW đầy đủ, nghiêm túc; chưa chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện hoặc xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch còn chậmvà lúng túng, chưa bám sát các nội dung chỉ đạo và thực tiễn địa phương.
Hai là, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra đối với đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao là hết sức đa dạng, phong phú. Trong khi ở tỉnh ta việc đa dạng hoá các loại hình cơ sở và ngành nghề đào tạo còn hạn chế, đặc biệt là đào tạo nguồn lao động chất lượng cao; kinh phí đầu tư nghề trọng điểm cấp độ quốc gia hằng năm phân bổ không đáp ứng yêu cầu để đăng ký hoạt động. Đội ngũ giáo viên, giảng viên một số cơ sở còn thiếu, chưa đồng bộ.Nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên tại các cơ sở đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu; đặc biệt, đầu tư các thiết bị công nghệ mới phục vụ cho đào tạo nghề chất lượng cao. Công tác xã hội hóa đầu tư đào tạo lao động chất lượng chưa mang lại hiệu quả.
Ba là, yêu cầu nguồn nhân lực có tay nghề cao cho sự phát triển của tỉnh là rất lớn trong điều kiện của một địa phương còn rất nhiều khó khăn. Nhưng tỉnh lại thiếu các cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy động các nguồn lực xã hội cho đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có tay nghề cao như chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực trọng điểm như nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm sản, y tế, công nghệ thông tin...; hỗ trợ liên kết đạo tạo.Cơ chế, chính sách khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng tham gia đào tạo còn thiếu đồng bộ; chưa thu hút được nhân tài tham gia đào tạo lao động tay nghề cao tại tỉnh; số lượng nhà giáo giỏi, các chuyên gia, kỹ sư giỏi, nghệ nhân tham gia đào tạo ở tỉnh còn ít. Việc phối hợp giữa các sở, ban, ngành và địa phương chưa được thường xuyên, kịp thời, hiệu quả chưa cao.Công tác dự báo nguồn lao động, nhất là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực; việc kết nối doanh nghiệp để tuyển dụng lao động sau đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu. Kết quả đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng.
Bốn là, yêu cầu chất lượng nguồn nhân lức cho quá trình phát triển của tỉnh nói chung, các tổ chức, doanh nghiệp nói riêng là rất cao. Trong khi,chất lượng hoạt động của các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh có mặt còn hạn chế, thiếu đồng bộ; một số ngành nghề có nhu cầu đào tạo cao nhưng cơ sở không đáp ứng được. Công tác tuyển sinh học nghề còn nhiều khó khăn, đặc biệt trong tuyển sinh trình độ cao đẳng nghề. Chất lượng đầu vào các ngành trọng điểm chưa cao, năng lực ngoại ngữ, kỹ năng mềm của học sinh, sinh viên còn hạn chế, ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo theo chuẩn. Còn tình trạng học sinh, sinh viên sau khi học xong chưa đủ kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc không đi làm việc; tính kỷ luật của một số người lao động không cao, vẫn mang tính tự phát, ảnh hưởng đến công tác giải quyết việc làm cho người lao động.
Những vấn đề trên khách quan là do điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh và các địa phương trong tỉnh còn nhiều khó khăn, nguồn lực đầu tư vào ngành nghề trọng điểm còn phụ thuộc vào các chương trình, dự án từ Trung ương. Các khu, cụm công nghiệp và khu du lịch trên địa bàn tỉnh mặc dù đã được quy hoạch, nhưng nhiều nơi chưa hình thành và phát triển, hạn chế thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng đến đầu tư, ảnh hưởng đến công tác giải quyết việc làm sau tốt nghiệp cho sinh viên, học sinh cũng như công tác tuyển sinh dạy nghề. Trình độ dân trí không đồng đều, đặc biệt là ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, một số tập quán lạc hậu vẫn tồn tại trong Nhân dân... đã tác động trực tiếp đến công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Nhưng về chủ quan xuất phát từ nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nhân lực có tay nghề cao của một số cấp ủy, chính quyền, cơ sở dạy nghề chưa đầy đủ; công tác quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp còn chồng chéo, việc khảo sát dự báo nhu cầu về nhân lực có tay nghề cao nhiều khi chưa kịp thời. Nhận thức về việc học nghề và đi xuất khẩu lao động ra nước ngoài, lao động ngoài tỉnh chưa đầy đủ nên số lượng người đi xuất khẩu lao động, ra ngoài tỉnh làm việc chưa nhiều. Vẫn còn một bộ phận nhân dân còn tư tưởng trông chờ chính sách nên không muốn cho con, em đi học nghề.
Việc phân luồng học sinh chưa được triển khai đồng bộ và triệt để. Một tỷ lệ không nhỏ học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT đi làm công việc lao động phổ thông, thời vụ, tự do, không đòi hỏi tay nghề, chuyên môn cao nên đã ảnh hưởng đến công tác phân luồng, tạo nguồn đào tạo nhân lực lao động có trình độ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhiều học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp (đại học, cao đẳng, trung cấp) không có việc làm ảnh hưởng đến tâm lý đi học nghề của nhiều học sinh.
Phối hợp liên kết giữa đào tạo nghề với doanh nghiệp chưa được gắn kết chặt chẽ. Một số lao động lựa chọn ngành nghề chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân, gia đình, dẫn đến chất lượng thấp, một số không tìm được việc làm sau khi học nghề. Một số người lao động xuất cảnh trái phép đi làm thuê bên kia biên giới ảnh hưởng đến sở thích học nghề của học sinh.
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý của các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên huyện tuy đã được kiện toàn, nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu, nhất là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý có trình độ chuyên ngành khi sáp nhập các trung tâm. Cơ chế, chính sách thu hút nhân tài và điều kiện, môi trường làm việc của tỉnh chưa hấp dẫn đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong đào tạo lao động chất lượng cao. Công tác kiểm định chất lượng đào tạo chưa thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.
Doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm đến quá trình đào tạo, việc phối hợp với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức đào tạo chưa thường xuyên; còn thiếu sự gắn kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo và giải quyết việc làm cho người lao động.
Để từng bước giải quyết được những vấn đề đặt ra, trong thời gian tới đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền, các ngành chức năng tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến giáo dục nghề nghiệp; gắn đào tạo lao động có tay nghề cao với triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, các công trình, dự án, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị;đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhà giáo, học sinh, sinh viên và Nhân dân các dân tộc đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về giáo dục nghề nghiệp; trong đó, chú trọng đào tạo nhân lực có tay nghề cao. Tiếp tục sắp xếp, nâng cao năng lực tổ chức bộ máy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, dự báo nhu cầu và xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn mới.
Rà soát các ngành nghề, triển khai đồng bộ việc đầu tư cơ sở vật chất, chương trình, giáo trình, bồi dưỡng nhà giáo..., đảm bào các ngành nghề trọng điểm đạt chuẩn về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2020 và giai đoạn tiếp theo. Đề xuất bổ sung một số ngành nghề trọng điểm nhu cầu xã hội cần, loại bỏ các ngành nghề trọng điểm khó tuyển sinh, nhu cầu xã hội bão hòa về nguồn lao động.
Hoàn thiện cơ chế xã hội hóa trong đầu tư phát triển đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; đa dạng hoá việc thu hút nguồn lực đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp; tiếp tục lồng ghép nguồn lực từ các chương trình, dự án khác để phát triển giáo dục nghề nghiệp; doanh nghiệp liên kết, ký kết hợp đồng đào tạo với các cơ sở đào tạo theo hình thức đặt hàng.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và trong nước, trao đổi chương trình đào tạo, trao đổi nhà giáo, phối hợp đánh giá chất lượng đào tạo và phát triển thị trường lao động. Tích cực học tập kinh nghiệm hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề ở một số tỉnh phát triển trong nước. Phát triển công tác dạy nghề của tỉnh đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế thông qua việc nâng cao năng lực tham gia hội nhập quốc tế cho học sinh, sinh viên, giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề. Phối hợp với doanh nghiệp để tuyển dụng và sử dụng các lao động sau khi tốt nghiệp.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra chất lượng đào tạo; tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, việc quản lý và tổ chức đào tạo tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Định kỳ, tổ chức sơ, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện gắn với biểu dương, khen thưởng, tôn vinh những cá nhân, tập thể có nhiều thành tích hoạt động giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động./.
Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thôngt ư số 19/2021/TT-BTC ngày 18/3/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế